PHỤC HỒI CHỨC NĂNG BỆNH NHÂN DI CHỨNG LIỆT NỬA NGƯỜI

I. ĐẠI CƯƠNG.
+  Bệnh lý:
 - Do tổn thương bó tháp ở nửa bán cầu bên đối diện.
 - Là một bệnh lý cấp tính, biểu hiện bằng hàng loạt các thiếu sót chức năng thần kinh, xảy ra đột ngột với các triệu chứng khu trú hoặc toàn thân.
 - Bệnh ngày càng phổ biến, tăng theo tuổi mặc dù có nhiều tiến bộ trong dự phòng và điều trị.
- Gây ảnh hưởng đến sức khỏe, lao động, sinh hoạt.
- Giai đoạn đầu là liệt mềm kéo dài một vài tuần sau đó là liệt cứng cuối cùng là các di chứng.
          +  PHCN:
1. NGUYÊN TẮC PHỤC HỒI CHỨC NĂNG.
- Phục hồi chức năng phải được bắt đầu càng sớm càng tốt, ngay sau khi bệnh nhân bị liệt ½ người, mỗi giai đoạn có những kỹ thuật và biện pháp cụ thể khác nhau.
- Lấy vai trò bệnh nhân là chính, thầy thuốc chỉ trợ giúp và hướng dẫn khi cần thiết.
- Luyện tập từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ đến nặng, đưa bệnh nhân ra khỏi giường càng sớm càng tốt.
- Phục hồi chức năng cần phải tiến hành lâu dài, tiếp tục tại nhà và dựa vào cộng đồng.
2. MỤC ĐÍCH PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
- Giúp bệnh nhân tự phục vụ cá nhân
- Giúp bệnh nhân tự di chuyển ( kể cả với dụng cụ trợ giúp )
- Giúp bệnh nhân thích nghi những di chứng còn lại
- Giúp đỡ bệnh nhân về nghề nghiệp
3. THỰC HÀNH
- Phục hồi vận động dựa trên lượng giá đúng chức năng vận động, phát hiện sớm khiếm khuyết trong vận động..
- Chống mẫu co cứng bệnh lý sớm bằng các tư thế như nằm ngửa, nằm nghiêng bên liệt và bên lành.
- Vận động thụ động hết tầm bên liệt, hiệp đông duỗi.
- Tập sử dụng động tác tối đa bên liệt ( hoạt động trị liệu ) trong tự phục vụ các sinh hoạt hàng ngày.
- Phục hồi phản xạ thăng bằng, phản xạ chống ngã.
- Sử dụng các dụng cụ trợ giúp trong PHCN

II. PHỤC HỒI CHỨC NĂNG Ở GIAI ĐOẠN DI CHỨNG.
1. ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN PHỤ THUỘC HOÀN TOÀN.
a. Mục đích:
- Phòng chống loét
- Phòng chống biến chứng co cứng cơ, teo cơ, cứng khớp.
- Tập vận động và hoạt động tự phục vụ.
b. Kỹ thuật:
- Tư thế để chống mẫu co cứng cơ:
Bố trí giường: Đặt bệnh nhân nằm bên liệt ở phía ngoài, bên lành ở phía tường, bố trí các vật dụng trong phòng và khi có người thăm đều ở phía bên liệt.
Tư thế bệnh nhân nằm:
+ Nằm nghiêng bên liệt : Tư thế thân mình nửa ngửa có gối chèn ở lưng, tay liệt khớp vai gấp 90o , khớp khuỷu duỗi, chân liệt duỗi, chân lành gấp 90o ở khớp háng và khớp gối.
+ Nằm nghiêng bên lành: Tay liệt gấp khớp vai 90o có gối đỡ, chân liệt khớp háng và khớp gối gấp cũng có gối đỡ phía dưới.
+ Nằm ngửa : Đầu có gối đỡ quay sang bên liệt, vai và tay bên liệt có gối đỡ để đưa khớp vai ra trước, tay liệt có thể duỗi theo thân hoặc duỗi lên quá đầu.
- Phòng và chống biến chứng do bất động:
Thay đổi tư thế nằm: Với bệnh nhân hôn mê tiến hành lăn trở bệnh nhân ít nhất mỗi giờ một lần. Hàng ngày cần thay đổi tư thế nằm của bệnh nhân từ nằm nghiêng, nằm sấp, nằm ngửa đến ngồi dậy và đứng lên.Tư thế ngồi và đứng rất quan trọng để giúp lưu thông tuần hoàn máu và bạch huyết. Trong trường hợp bệnh nhân không ngồi và đứng được thì sử dụng các loại giường hay bàn dốc với các góc độ khác nhau.
Tập thụ động: Có thể hướng dẫn người nhà hoặc nhân viên y tế trực tiếp tiến hành tập vận động thụ động cho bệnh nhân bằng các động tác xoa bóp và tập theo tầm vận động của khớp.
Tập chủ động: Ngoại trừ bệnh nhân hôn mê, còn lại đa số bệnh nhân đều có thể tự tập ở mức độ khác nhau, việc tự tập cần được tiến hành càng sớm càng tốt,tùy theo tình trạng có thể tự xoa bóp, tự vận động khớp bên lành, tự cử động khớp bên liệt, chi lành đỡ chi liệt vận động, tự lăn trở mình, tập thở. Cần khuyến khích bệnh nhân tự mình hoặc có thể trợ giúp để ngồi dậy và thoát ly khỏi giường đi lại trong phòng càng sớm càng tốt.
- Duy trì tầm vận động khớp:
Xoa bóp các chi từ ngọn chi đến gốc chi.
Duy trì tầm vận động thụ động các khớp bằng các bài tập cơ bản ( tập theo tầm vận động khớp ).
Hướng dẫn tự tập: Tập tay lành đỡ tay liệt, chân lành đỡ chân liệt.
2. ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN PHỤ THUỘC MỘT PHẦN.
a. Mục đích: Bệnh nhân bắt đầu tập ngay càng sớm càng tốt và ngay sau khi bị đột quị hay chấn thương. Nếu ta trì hoãn sự khởi đầu chương trình tập, tức là làm cho những chi không bị liệt và thân mình có thể bị yếu dần đi hoặc không được dùng đến, cũng như tạo thái độ lệ thuộc và tình trạng chán nản ở bệnh nhân.
b. Kỹ thuật:
- Giai đoạn nằm tại giường:
Trong thời gian nằm trên giường bệnh nhân cần chú ý tập thụ động để duy trì tầm hoạt động hoàn toàn của tay chân liệt 2 lần/ ngày. Nếu bệnh nhân liệt mềm đừng kéo mạnh xương khớp vai vì khớp xương này dễ bị hư hại khi bệnh nhân không có sức mạnh của cơ thể bảo vệ nó.
Đặt tư thế đúng: Vị trí đúng ở trên giường rất quan trọng cho đến khi bệnh nhân có thể tự mình chuyển động từ nơi này đến nơi khác.
Nếu bệnh nhân có khả năng thay đổi vị trí của mình luôn mà không cần trợ giúp thì họ có thể tránh được chỗ da lở và duy trì sức mạnh thân thể. Cần tập cho bệnh nhân như sau:
+ Nằm nghiêng bên liệt: Lấy tay không liệt nắm cạnh giường bên liệt, rồi dùng chân không liệt để tự mình quay.
+ Nằm nghiêng bên lành: Nắm vững cạnh giường bên ấy với tay không liệt, trước khi quay phải đặt tay liệt lên bụng và dùng chân không liệt luồn dưới cổ chân liệt. Như vậy chân không liệt sẽ giúp đỡ nâng sức nặng chân liệt.
+ Ngồi dậy: Có thể dùng một sợi dây cột ở cuối giường tự mình kéo lên đến vị trí ngồi. Một số bệnh nhân có thể tự ngồi dậy trên giương bằng cách nghiêng mình về phía bên không liệt và chống tay không liệt để nâng mình đến vị trí ngồi. Tuy nhiên cần chú ý đặc biệt đến thăng bằng của người bệnh khi ngồi.
- Giai đoạn đứng dậy:
Bệnh nhân đến phòng điều trị thì việc bắt đầu tập đứng, giữ thăng bằng là quan trọng nhất.
Bắt đầu đứng dậy theo cách:
+ Bệnh nhân ngồi trên một cái ghế vững chắc đặt giữa hai trụ song song, nếu dùng xe lăn thì trước hết phải khóa hai bánh. Tập cho bệnh nhân biết dùng tay không liệt để nắm chặt vào thanh cây để đứng lên và ngồi xuống.
+ Tập cho bệnh nhân biết đứng và giữ thăng bằng với sức nặng than thể chi phối đều lên cả hai chân. Ban đầu thì phải dùng tay không liệt nhưng khi đã có tiến bộ một ít thì không nên dùng tay nữa.
+ Khi bệnh nhân có sức mạnh và thăng bằng đầy đủ thì họ nên bắt đầu tập đi bộ trong hai trụ song song và dùng tay không liệt để giữ cho vững chắc. từ giai đoạn này tiến tới việc đi bộ ngoài trụ song song với cây chống càng sớm càng tốt.
+ Nếu bệnh nhân có chân liệt cứng trầm trọng thì đó là vấn đề đặc biệt. Thường thường khi bệnh nhân đứng lên thì trước hết chân liệt sẽ co lại tại hông và gối. Đó là cử động không tự ý và đôi khi bệnh nhân không tự biết là chân co rút lại. Loại bệnh nhân này khi đứng lên thì nhớ đợi một chút rồi mới bước đi. Dần dần chân liệt sẽ giãn nghỉ và dang thẳng ra, rồi bệnh nhân có thể bước đi một cách vững vàng.
+ Liệt bán than lúc nào cũng có khuynh hướng ngả về bên liệt. Khi bạn giúp một bệnh nhân bước đi, lúc nào bạn cũng nên ở bên liệt của bệnh nhân và chú ý cẩn thận.
- Tập lên xuống cầu thang.
- Tập cách đi với cây chống, gậy.
- Động tác thường ngày ( hoạt động trị liệu ).
® lưu ý:
       - Tâm lý: chào hỏi, động viên bệnh nhân trước và sau tập.
       - Tránh thay đổi tư thế đột ngột, đề phòng tụt huyết áp tư thế.
 - An toàn cho BN trong tập luyện: theo dõi mạch, huyết áp, không tập luyện quá mức.
 - Ngăn ngừa đau/bán trật khớp vai: vận động nhẹ nhàng, treo tay khi ngồi đứng đi (gđ liệt mềm), không kéo tay bên liệt, không tập động tác xoay tròn khớp vai bên liệt, không kéo ròng rọc quá nhiều. Có thể giảm đau nhức khớp vai bên liệt bằng chườm nóng, hồng ngoại, siêu âm điều trị, di động cơ khớp….
 - Ngăn ngừa biến dạng ưỡn gối: không đi sớm khi chưa chủ động duỗi gối hết tầm độ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chat trên Facebook